Scholar Hub/Chủ đề/#bệnh glôcôm/
Glôcôm, hay cườm nước, là bệnh mắt gây tổn thương dây thần kinh thị giác, có thể dẫn đến mất thị lực nếu không điều trị kịp thời. Bệnh thường do áp lực nội nhãn tăng cao; nguy cơ tăng với tiền sử gia đình, tuổi cao, bệnh tim mạch, và sử dụng steroids lâu dài. Glôcôm gồm glôcôm góc mở và góc đóng; triệu chứng hay gặp là mất thị lực ngoại vi và đau mắt. Điều trị gồm thuốc nhỏ mắt, laser, và phẫu thuật nhằm giảm áp lực nội nhãn. Kiểm tra định kỳ giúp phát hiện và ngăn ngừa tổn thương thị lực hiệu quả.
Bệnh Glôcôm: Những Điều Cần Biết
Glôcôm, hay còn được gọi là cườm nước, là một nhóm các bệnh về mắt gây tổn thương cho dây thần kinh thị giác và có thể dẫn đến mất thị lực nếu không được điều trị kịp thời. Đây là một trong nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa không thể phục hồi trên thế giới. Việc hiểu rõ về bệnh glôcôm có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và điều trị sớm.
Nguyên Nhân Gây Bệnh Glôcôm
Bệnh glôcôm thường xảy ra do áp lực nội nhãn (IOP) tăng cao, gây tổn thương dây thần kinh thị giác. Tuy vậy, nguyên nhân chính xác của glôcôm vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Một số yếu tố nguy cơ được xác định bao gồm:
- Tiền sử gia đình có người mắc glôcôm.
- Tuổi tác, đặc biệt là người trên 60 tuổi.
- Đái tháo đường, bệnh tim mạch và các bệnh lý khác liên quan.
- Tiền sử chấn thương mắt.
- Sử dụng steroids trong thời gian dài.
Các Loại Glôcôm
Glôcôm có thể được phân thành nhiều loại khác nhau, nhưng phổ biến nhất là:
Glôcôm Góc Mở
Đây là loại glôcôm phổ biến nhất, chiếm khoảng 90% các trường hợp. Bệnh tiến triển chậm và thường không có triệu chứng rõ ràng cho đến khi đã có tổn thương dây thần kinh thị giác nghiêm trọng.
Glôcôm Góc Đóng
Khác với glôcôm góc mở, glôcôm góc đóng có thể xảy ra đột ngột và gây triệu chứng rõ rệt như đau mắt, mắt đỏ, và giảm thị lực nhanh chóng. Đây là tình trạng cấp cứu cần phải được xử lý ngay lập tức.
Triệu Chứng của Glôcôm
Các triệu chứng của glôcôm thường phụ thuộc vào loại và giai đoạn của bệnh. Một số dấu hiệu thường gặp bao gồm:
- Mất thị lực ngoại vi, thường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.
- Nhìn mờ, đặc biệt trong trường hợp glôcôm góc đóng.
- Nhìn thấy quầng sáng xung quanh nguồn sáng.
- Đau hoặc đỏ mắt (đặc biệt trong trường hợp glôcôm cấp tính).
Phương Pháp Điều Trị
Điều trị glôcôm nhằm giảm áp lực nội nhãn để ngăn ngừa tổn thương thêm cho dây thần kinh thị giác. Các phương pháp điều trị bao gồm:
Dùng Thuốc
Thuốc nhỏ mắt được sử dụng để làm giảm áp lực nội nhãn. Trong một số trường hợp, thuốc uống cũng có thể được chỉ định.
Laser
Điều trị bằng laser có thể giúp cải thiện tình trạng thoát nước của mắt đối với glôcôm góc mở hoặc mở góc trong glôcôm góc đóng.
Phẫu Thuật
Nếu các phương pháp khác không hiệu quả, phẫu thuật có thể được xem xét để tạo đường thoát mới cho dịch mắt, giúp giảm áp lực nội nhãn.
Phòng Ngừa và Kiểm Tra Định Kỳ
Kiểm tra mắt định kỳ là cách tốt nhất để phát hiện sớm và ngăn ngừa tổn thương nghiêm trọng đến thị lực do glôcôm. Những người có nguy cơ cao nên được kiểm tra mắt thường xuyên hơn và tuân thủ chặt chẽ chỉ định của bác sĩ. Sống lành mạnh, kiểm soát các bệnh lý liên quan và bảo vệ mắt khỏi chấn thương cũng là các biện pháp hỗ trợ trong việc phòng ngừa glôcôm.
Bệnh glôcôm là một vấn đề nghiêm trọng nhưng với sự hiểu biết và chú ý đúng mực, việc phát hiện và điều trị sớm có thể giúp bảo vệ thị lực của bạn.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUANG ĐÔNG THỂ MI BẰNG LASER VI XUNG CHỌN LỌC TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM TUYỆT ĐỐIMục tiêu: Đánh giá hiệu quả hạ nhãn áp và độ an toàn của phương pháp Quang đông thể mi (QĐTM) bằng laser diode 810nm vi xung chọn lọc với chu kỳ xung 31,3% trên bệnh nhân glôcôm tuyệt đối.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu được thực hiện trên 64 mắt từ tháng 10/2020 đến tháng 04/2021tại Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh.
Kết quả: Nghiên cứu bao gồm 64 bệnh nhân: 26 bệnh nhân là nữ và 38 bệnh nhân là nam, tuổi trung bình là 56,1 ± 2,1. Nhãn áp trung bình trước phẫu thuật là 45,9 ± 11,1 mmHg và 25,8 ± 13,8 mmHg sau phẫu thuật. Mức giảm nhãn áp trung bình lần lượt là 42,4%; 33,5%; 39,1%; 45,5% sau phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng (p<0,001). Sau QĐTM bằng laser vi xung chọn lọc ghi nhận tỉ lệ 93,7% bệnh nhân cải thiện mức độ đau. Số lượng thuốc hạ nhãn áp trung bình được sử dụng trước phẫu thuật là 3,5 loại thuốc và giảm xuống 1,6 loại sau phẫu thuật 6 tháng. Không có biến chứng nặng nào được ghi nhận trong và sau phẫu thuật.
Kết luận: Điều trị quang đông thể mi vi xung chọn lọc với chu kỳ xung 31,3% là phương pháp hiệu quả và an toàn giúp hạ nhãn áp và giảm đau trong bệnh glôcôm tuyệt đối.
#Bệnh glôcôm #quang đông thể mi vi xung chọn lọc.
Đặc điểm rối loạn sắc giác trên bệnh nhân glôcôm nguyên phátMục tiêu: Mô tả đặc điểm rối loạn sắc giác trên bệnh nhân glôcôm nguyên phát. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 67 mắt của 52 bệnh nhân glôcôm nguyên phát điều trị tại Khoa Mắt, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: 53/67 mắt có rối loạn sắc giác và gặp ở mọi giai đoạn của bệnh glôcôm, rối loạn sắc giác ở trục màu xanh lơ - vàng chiếm tỷ lệ cao nhất (70,1%). Kết luận: Rối loạn sắc giác gặp hầu hết ở mọi giai đoạn tổn hại thị trường và mọi giai đoạn bệnh glôcôm, rối loạn trục màu xanh lơ - vàng chiếm tỷ lệ cao.
#Thị lực #rối loạn sắc giác #glôcôm
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LASER TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM GÓC MỞ ĐÃ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC HẠ NHÃN ÁPMục tiêu: Đánh giá hiệu quả tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trên bệnh nhân glôcôm góc mở đã được điều trị bằng thuốc tra hạ nhãn áp. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả đã thu nhận 40 mắt trên 28 bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát và glôcôm thứ phát do thuốc đã tra thuốc hạ nhãn áp, được tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser 360o. Tình trạng thị lực, thị trường, nhãn áp, góc tiền phòng, đáy mắt, thông số laser, số thuốc tra được đánh giá tại các thời điểm trước và sau điều trị 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng. Kết quả: độ tuổi trung bình là 48,95 ± 15,76, tỷ lệ nam/ nữ tương đối đồng đều (55% và 45%); thời gian mắc bệnh trung bình 21,33 ± 31,2 tháng; đa số bệnh nhân ở giai đoạn bệnh trung bình và nặng. Nhãn áp trung bình trước điều trị là 27,48 ± 5,92 mmHg, giảm xuống 20,05 ± 4,36 mmHg ở thời điểm 2 tuần; 17,98 ± 5,73 mmHg ở thời điểm 1 tháng; 16,36 ± 3,58 mmHg ở thời điểm 3 tháng với tỷ lệ hạ % nhãn áp tương ứng là 26%; 31% và 39%. Số thuốc tra trung bình trước điều trị là 3,05 ± 0.75, giảm xuống 2,15 ± 1,1 thuốc tại thời điểm 1 tháng và 1,76 ± 0,97 thuốc tại thời điểm 3 tháng. Các trường hợp ở giai đoạn bệnh sớm và nặng có tỷ lệ hạ nhãn áp cao nhất ở thời điểm 3 tháng (37 – 42%), với những trường hợp ở giai đoạn trung bình tỷ lệ hạ nhãn áp cao nhất ở thời điểm 1 tháng sau điều trị (38%). Thị lực, thị trường và tình trạng góc tiền phòng không thay đổi đáng kể sau điều trị. Biến chứng sau điều trị gồm cảm giác cộm vướng nhức mắt (7,5%), cương tụ kết mạc nhẹ (10%) xuất hiện với tần suất thấp, thoáng qua. Kết luận: Laser tạo hình vùng bè chọn lọc là phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả trong điều trị bệnh nhân glôcôm góc mở đã được điều trị bằng thuốc tra hạ nhãn áp.
#Glôcôm góc mở # #laser tạo hình vùng bè chọn lọc (SLT) #thuốc hạ nhãn áp
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN GLÔCÔM ÁC TÍNH ĐIỀU TRỊ BẰNG PHẪU THUẬTMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân glôcôm ác tính phải điều trị bằng phẫu thuật. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Kết quả: Nghiên cứu gồm 53 mắt glôcôm ác tính của 46 người bệnh, tuổi trung bình 59,7, nữ chiếm 76,1%. 77,4% mắt có chẩn đoán glôcôm góc đóng trước khởi phát glôcôm ác tính. Đa số phẫu thuật trước đó là cắt bè củng giác mạc (CGM) (77,4%). Số mắt có trục nhãn cầu ≤ 22mm chiếm 71,7%. TNC trung bình 21,7mm. Hình ảnh thể mi dẹt và quay trước trên siêu âm UBM gặp ở 85% các trường hợp. Kết luận: Glôcôm ác tính thường xuất hiện trên những người bệnh lớn tuổi, nữ giới, bị Glôcôm góc đóng, đã phẫu thuật cắt bè CGM trước đó và có trục nhãn cầu ngắn.
#Glôcôm ác tính #trục nhãn cầu #thể mi xoay trước
Khảo sát hoạt động thị giác của bệnh nhân glôcôm sử dụng bảng VF-14Mục tiêu: Sử dụng bảng VF-14 đánh giá hoạt động thị giác của người bệnh glôcôm cũng như tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mức độ suy giảm chức năng hoạt động thị giác do glôcôm của bệnh nhân tại phòng khám ngoại trú Khoa Glôcôm - Bệnh viện Mắt Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng bảng câu hỏi VF-14 phỏng vấn 1-1 trên 100 bệnh nhân glôcôm đến khám tại phòng khám và điều trị ngoại trú Khoa Glôcôm - Bệnh viện Mắt Trung ương. Mức độ suy giảm chức năng hoạt động thị giác của người bệnh được xác định dựa theo thang điểm VF-14. Các khám nghiệm chức năng như thị lực, nhãn áp, thị trường và thực thể tại mắt cùng với các yếu tố toàn thân, gia đình cũng được đánh giá. Kết quả: Qua khảo sát 100 người bệnh glôcôm tham gia nghiên cứu (55% góc mở nguyên phát, 30% góc đóng nguyên phát, 14% glôcôm thứ phát, 1% glôcôm bẩm sinh) điểm VF -14 trung bình là 80,02 ± 20,29. Tỷ lệ gặp khó khăn khi lái xe, đi xe máy hoặc xe đạp vào ban đêm là cao nhất, chiếm 73%, tỷ lệ gặp khó khăn kể cả khi đeo kính để nhận biết người ở gần là thấp nhất (24%). Tình trạng suy giảm hoạt động thị giác ở các mức độ không suy giảm, suy giảm tối thiểu, suy giảm nhẹ, vừa, nặng, nghiêm trọng lần lượt là 11%, 30%, 29%, 28% và 1%. Có mối liên quan giữa sự suy giảm hoạt động chức năng thị giác với nhóm tuổi, hình thái glôcôm và mức thị lực với p<0,05. Kết luận: Bảng câu hỏi VF-14 là một công cụ hữu ích trong việc đánh giá hoạt động thị giác nói riêng và chất lượng cuộc sống của người bệnh glôcôm nói chung.
#Bảng VF-14 #hoạt động thị giác #bệnh glôcôm
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ PHÁT HIỆN SỚM BỆNH GLÔCÔM VÀ KHẢ NĂNG CUNG CẤP DỊCH VỤ Y TẾ VỀ BỆNH GLÔCÔM CỦA CÁN BỘ Y TẾ CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HUẾMục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về phát hiện sớm bệnh glôcôm của cán bộ y tế cơ sở. Đánh giá khả năng cung cấp dịch vụ y tế bệnh glôcôm của các trạm y tế tại thành phố Huế. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 135 cán bộ y tế làm việc tại 27 trạm y tế của thành phố Huế. Kết quả: Tỷ lệ cán bộ y tế có kiến thức, thái độ tốt về bệnh glôcôm lần lượt là 7,4%, và 11,1%; Có 0,7% cán bộ y tế có thực hành tốt về phát hiện sớm bệnh glôcôm. 28,9% cán bộ y tế biết đo thị lực. Tỷ lệ cán bộ y tế biết ước lượng nhãn áp bằng tay chỉ 0,7%. Trạm y tế không thường xuyên cung cấp dịch vụ y tế bệnh glôcôm: chỉ 0,8% thường xuyên sử dụng các phương tiện có sẵn ở trạm để khám phát hiện glôcôm. Chỉ 1,5% thường xuyên tư vấn các bệnh mắt như glôcôm. Kết luận: Kiến thức, thái độ, thực hành tốt về bệnh glôcôm của cán bộ y tế cơ sở khá thấp. Khả năng cung cấp dịch vụ y tế bệnh glôcôm ở tuyến y tế cơ sở còn rất hạn chế.
#glôcôm #kiến thức #thái độ #thực hành #cán bộ y tế cơ sở
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LASER TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM GÓC MỞ ĐÃ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ THUỐC TRA HẠ NHÃN ÁPMục tiêu: Nhận xét một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trên bệnh nhân glôcôm góc mở đã được điều trị thuốc tra hạ nhãn áp. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả trên 40 mắt của 28 bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát và thứ phát do thuốc đã tra thuốc hạ nhãn áp, được tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser 360o. Tình trạng thị lực, thị trường, nhãn áp, góc tiền phòng, đáy mắt, thông số laser, số thuốc tra được đánh giá tại các thời điểm trước và sau điều trị 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng. Kết quả: Có mối liên quan giữa giới tính, tình trạng sắc tố vùng bè, nhãn áp trước điều trị và thành công điều trị. Tại thời điểm 2 tuần bệnh nhân nam có tỷ lệ thành công cao hơn bệnh nhân nữ (p = 0,013). Tại thời điểm 3 tháng sắc tố vùng bè càng cao càng làm tăng mức độ thành công điều trị (p = 0,017). Tại thời điểm 1 tháng nhãn áp trước điều trị càng cao càng làm tăng mức độ thành công điều trị (p = 0,013). Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, thời gian mắc bệnh, số thuốc tra hạ nhãn áp trước điều trị, giai đoạn bệnh, năng lượng laser đến thành công của điều trị. Kết luận: Có mối liên quan có ý nghĩa giữa giới tính, sắc tố vùng bè, nhãn áp trước điều trị với tỷ lệ thành công của điều trị.
#Glôcôm góc mở #laser tạo hình vùng bè #thuốc hạ nhãn áp
Đánh giá kết quả sau phẫu thuật ở người bệnh glôcôm tại Khoa Glôcôm, Bệnh viện mắt Trung ương năm 2022Mục tiêu: Đánh giá kết quả sau phẫu thuật ở người bệnh (NB) glôcôm và tìm hiểu một số yếu tố liên quan tại khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện với 321 người bệnh được phẫu thuật tại Khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2022. Đánh giá kết quả trên thang điểm 100 dựa vào 10 tiêu chí: Mức cải thiện thị lực, nhãn áp, mức cải thiện dấu hiệu cơ năng, thực thể,biến chứng sau phẫu thuật, mức hài lòng chăm sóc, tình trạng giấc ngủ, tình trạng lo lắng và mức độ hồi phục sau phẫu thuật. Kết quả: Điểm trung bình kết quả sau phẫu thuật ở người bệnh glôcôm là 76,0 ± 8,2. Tỷ lệ kết quả mức tốt là 40,5%, mức khá là 54,5%, mức trung bình là 4,4% và mức kém là 0,6%. Có sự liên quan giữa một số yếu tố tại mắt như: Chẩn đoán nhóm bệnh, giai đoạn bệnh, phương pháp phẫu thuật với kết quả chăm sóc (p < 0,05).Kết luận: Kết quả sau phẫu thuật ở người bệnh glôcôm ở mức khá. Một số yếu tố tại mắt liên quan đến kết quả chăm sóc như: Chẩn đoán nhóm bệnh, giai đoạn bệnh, phương pháp phẫu thuật có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
#Glôcôm #kết quả sau phẫu thuật
TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ CỦA QUANG ĐÔNG THỂ MI XUYÊN CỦNG MẠC BẰNG LASER VI XUNG ĐIỀU TRỊ GLÔCÔMMục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả của quang đông thể mi xuyên củng mạc bằng laser vi xung trong điều trị glôcôm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu không có nhóm đối chứng được thực hiện trên bệnh nhân glôcôm đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau: bệnh nhân glôcôm nhãn áp không điều chỉnh với thuốc tra hạ nhãn áp tối đa (4 thuốc), bệnh nhân đã điều trị bằng các phương pháp phẫu thuật tăng thoát lưu thủy dịch ≥ 1 lần nhưng thất bại hoặc hình thái glôcôm khó điều trị có nguy cơ thất bại cao nếu phẫu thuật dẫn lưu. Bệnh nhân được theo dõi kết quả điều trị tại các thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng sau đợt laser đầu tiên. Những bệnh nhân không đạt được nhãn áp mong muốn có thể xem xét laser bổ sung đợt hai ít nhất 1 tháng sau đợt đầu tiên. Sau 3 tháng điều trị laser, nghiên cứu đánh giá tỷ lệ thành công và mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, giới, thời gian phát hiện bệnh, hình thái glôcôm, nhãn áp trước điều trị, số lần phẫu thuật thất bại trước đó đối với kết quả thành công chung. Nghiên cứu thực hiện tại Khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 8 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022. Kết quả: 26 mắt của 25 bệnh nhân có tuổi trung bình 50,2 ± 25,7 được đưa vào nghiên cứu. Nhãn áp trung bình trước điều trị là 37,7 ± 10,5 mmHg giảm xuống còn 20,6 ± 8,2 mmHg sau 3 tháng (giảm 45,4%). Tỷ lệ thành công giữa các hình thái glôcôm có sự khác biệt đáng kể, thấp nhất là nhóm glôcôm tân mạch và cao nhất là nhóm glôcôm thứ phát do nguyên nhân viêm, sau chấn thương, sau phẫu thuật điều trị bong võng mạc. Bệnh nhân có thời gian từ khi phát hiện triệu chứng bệnh glôcôm tới khi điều trị nhỏ hơn 1 tháng có tỷ lệ điều trị thành công thấp nhất, tiếp theo là nhóm đã được phát hiện bệnh hơn 1 năm và cao nhất là nhóm có thời gian phát hiện bệnh từ 1 tháng đến 1 năm. Nhãn áp trước điều trị có ảnh hưởng đến mức độ thành công của phẫu thuật, nhãn áp trước mổ càng cao thì khả năng đạt thành công về nhãn áp càng thấp. Kết luận: Các yếu tố hình thái glôcôm, thời gian phát hiện bệnh và nhãn áp trước điều trị có ảnh hưởng đến kết quả điều trị quang đông thể mi xuyên củng mạc bằng laser vi xung. Chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố khác như tuổi, giới, số lần phẫu thuật thất bại trước khi laser với mức độ thành công chung của điều trị.
#quang đông thể mi xuyên củng mạc #laser vi xung #hình thái glôcôm #thời gian phát hiện bệnh #nhãn áp trước điều trị
13. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP QUANG ĐÔNG VI XUNG THỂ MI XUYÊN CỦNG MẠC BỔ SUNG TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM KHÁNG TRỊMục tiêu: Glôcôm kháng trị thất bại với phương pháp quang đông thể mi xuyên củng mạc thường quy là một thách thức với bác sĩ glôcôm. Bệnh nhân có thể mù lòa hoặc đau nhức dữ dội. Gần đây, phương pháp quang đông thể mi xuyên củng mạc bổ sung kết hợp 2 kỹ thuật: “quét và chấm điểm”, với khả năng hạ nhãn áp và an toàn. Vì vậy chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả phương pháp quang đông thể mi xuyên củng mạc bổ sung trên bệnh nhân glôcôm kháng trị đã thất bại với phương pháp quang đông thể mi thường quy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. Tái khám sau 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Tiêu chuẩn thành công khi nhãn áp hạ ≥ 20% hoặc nhãn áp từ 6 đến 25 mmHg và không có phẫu thuật glôcôm khác.
Kết quả: Nghiên cứu 39 mắt, tuổi trung bình: 55,2 ± 12,9, tỉ lệ nam : nữ ≈ 1,2 : 1. Glôcôm tân mạch tỉ lệ cao nhất chiếm 38,5%. Thị lực từ sáng tối âm đến ĐNT 0,5m. Tất cả ở giai đoạn nặng có tỉ lệ lõm / đĩa ≈ 1.0. Nhãn áp trước điều trị là 43,1 ± 9,6 mmHg sau 6 tháng 20,7 ± 13,5 mmHg (giảm 60%) (p < 0,001). Số lượng thuốc hạ áp trước điều trị là 3,6 ± 0,6 còn 1,5 ± 1,1 sau 6 tháng (p < 0,001). Không ghi nhận biến chứng nghiêm trọng.
Kết luận: Phương pháp quang đông thể mi xuyên củng mạc bổ sung có hiệu quả và an toàn trên bệnh nhân glôcôm kháng trị đã thất bại với phương pháp quang đông thể mi xuyên củng mạc thường quy.
#Glôcôm kháng trị #quang đông vi xung thể mi xuyên củng mạc bổ sung